Ung thư vú giai đoạn đầu không thể bỏ qua: Giai đoạn sớm 1 và 2 - Bacsiungthu.net

29/03/2023 14:03

Bacsiungthu.net - Ung thư vú giai đoạn sớm là những khối u vú ác tính nhưng được giới hạn trong mô vú và có thể xâm lấn đến hạch bạch huyết nhưng chưa xâm lấn nhiều đến các cơ quan xung quanh. Tiên lượng cho những giai đoạn ung thư vú này là tốt hơn nhiều so với những giai đoạn muộn hơn.

Ung thư vú giai đoạn đầu không thể bỏ qua: Giai đoạn sớm 1 và 2-Bacsiungthu.net

Ung thư vú giai đoạn đầu không thể bỏ qua: Giai đoạn sớm 1 và 2

Ung thư vú giai đoạn 1 và 2 là ung thư vú xâm lấn nằm trong vú. Ung thư có thể đã hoặc chưa lan đến các hạch bạch huyết ở vú hoặc nách. Một số trường hợp, tế bào ung thư có thể đã lan ra ngoài vú và vùng nách nhưng không thể phát hiện được. Ung thư vú được chẩn đoán và điều trị càng sớm thì cơ hội sống sót càng cao.
Ở bài viết này chúng ta hãy cùng làm rõ các vấn đề liên quan đến ung thư vú, hiểu rõ ung thư vú giai đoạn đầu, và cách nhận biết giai đoạn sớm, và mức độ nguy hiểm của ung thư vú giai đoạn 1 và 2 cũng như cùng tìm hiểu các phương pháp điều trị hiểu quả, và cuối bài viết sẽ có thông tin liên hệ Tiến sĩ Bác sĩ Nguyễn Quang Thái, Trưởng khoa Ngoại bệnh viện K, nếu người bệnh cần tư vấn trực tiếp. (mỗi tuần bác sĩ sẽ dành riêng 2 tiếng để tư vấn Miễn phí vì Cộng đồng Ung bướu Việt Nam, link cộng đồng ở cuối bài viết)

1. Ung thư vú giai đoạn sớm là gì?

Ung thư vú giai đoạn sớm là những khối u vú ác tính nhưng được giới hạn trong mô vú và có thể xâm lấn đến hạch bạch huyết nhưng chưa xâm lấn nhiều đến các cơ quan xung quanh. Tiên lượng cho những giai đoạn ung thư vú này là tốt hơn nhiều so với những giai đoạn muộn hơn.

Theo các bác sĩ ung thư giỏi nổi tiếng thì Loại ung thư vú phổ biến nhất ở giai đoạn sớm là ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (Ductal carcinoma in stiu DCIS) có nguồn gốc từ các tế bào trong ống dẫn sữa.

Ung thư giai đoạn 0 được gọi là "ung thư biểu mô tại chỗ". Carcinoma có nghĩa là ung thư và “In situ” có nghĩa là “tại vị trí ban đầu”. Ba loại “ung thư biểu mô tại chỗ” của mô vú là: DCIS - Ung thư biểu mô ống dẫn tại chỗ LCIS ​​- Ung thư biểu mô dạng thùy tại chỗ và Bệnh Paget của núm vú

Ung thư vú giai đoạn 1 và 2 là ung thư vú xâm lấn nằm trong vú. Ung thư có thể đã hoặc chưa lan đến các hạch bạch huyết ở vú hoặc nách. Một số trường hợp, tế bào ung thư có thể đã lan ra ngoài vú và vùng nách nhưng không thể phát hiện được. Ung thư vú được chẩn đoán và điều trị càng sớm thì cơ hội sống sót càng cao.

2. Các loại ung thư vú giai đoạn 1 & 2

Các loại ung thư vú xâm lấn phổ biến nhất được đặt tên theo vị trí mà các tế bào bị ung thư hoá ban đầu. Các loại ung thư vú giai đoạn đầu bao gồm:

Ung thư biểu mô ống dẫn sữa xâm lấn (Invasive ductal carcinoma - IDC) - IDC bắt đầu trong ống dẫn dẫn sữa và chiếm 80% tổng số ca ung thư vú.
Ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn (Invasive lobule carcinoma ILC) - ILC bắt đầu trong các tiểu thùy và chiếm 10% các trường hợp ung thư vú.
Ngoài ra còn có các dạng ung thư vú xâm lấn khác ít phổ biến hơn, chẳng hạn như ung thư vú dạng viêm và bệnh Paget của núm vú.

3. Ung thư vú giai đoạn 1

Trong ung thư vú giai đoạn 1, ung thư biểu hiện rõ ràng nhưng khối u chỉ giới hạn khu vực bắt đầu phát triển các tế bào bất thường đầu tiên. Nếu ung thư vú đã được phát hiện ở giai đoạn này có thể điều trị rất hiệu quả.

Giai đoạn 1 có thể được chia thành Giai đoạn 1A và Giai đoạn 1B. Sự khác biệt được xác định bởi kích thước của khối u và các hạch bạch huyết có bằng chứng của các tế bào ung thư.

Ung thư vú giai đoạn 1A có nghĩa bao gồm: Khối u nhỏ hơn hoặc gần bằng kích thước hạt đậu phộng (2 cm hoặc nhỏ hơn) VÀ chưa lan đến các hạch bạch huyết.
Ung thư vú giai đoạn 1B bao gồm:
Các hạch bạch huyết có bằng chứng của tế bào ung thư với các cụm tế bào nhỏ có kích thước từ 0,2 mm đến 2,0 mm tương đương kích thước ước chừng của một đầu đinh nhọn đến xấp xỉ một hạt gạo.
VÀ không có khối u thực sự được tìm thấy trong vú.
HOẶC khối u nhỏ hơn kích thước 2cm hoặc nhỏ hơn (tương đương kích thước hạt đậu phộng).

4. Ung thư vú giai đoạn 2

Giai đoạn 2 có nghĩa là ung thư vú đang phát triển, nhưng nó vẫn còn được giới hạn trong vú hoặc sự phát triển chỉ mở rộng đến các hạch bạch huyết gần đó. Giai đoạn này được chia thành các nhóm: Giai đoạn 2A và Giai đoạn 2B. Sự khác biệt được xác định bởi kích thước của khối u và liệu ung thư vú di căn đến các hạch bạch huyết hay chưa.

Ung thư vú giai đoạn IIA bao gồm:

Không có khối u thực sự nào liên quan đến tế bào ung thư và ít hơn bốn hạch bạch huyết ở nách có tế bào ung thư.
HOẶC khối u nhỏ hơn 2 cm và ít hơn bốn hạch bạch huyết ở nách có tế bào ung thư.
HOẶC khối u có kích thước từ 2 đến 5 cm và chưa lan đến các hạch bạch huyết.
Ung thư vú giai đoạn IIB bao gồm:

Khối u có kích thước từ 2 đến 5 cm và đã lan đến ít hơn 4 hạch bạch huyết ở nách.
HOẶC khối u lớn hơn 5cm, nhưng chưa lan đến bất kỳ hạch bạch huyết nào ở nách.
Ung thư vú
Giai đoạn 2 có nghĩa là ung thư vú đang phát triển

5. Điều trị ung thư vú giai đoạn sớm

Mục đích của điều trị ung thư vú giai đoạn đầu là loại bỏ ung thư vú và bất kỳ tế bào ung thư nào có thể vẫn còn trong vú, nách hoặc các bộ phận khác của cơ thể nhưng không thể phát hiện được.

Điều trị ung thư vú giai đoạn đầu có thể khác nhau ở mỗi người. Giai đoạn (mức độ) của bệnh ung thư vú là một yếu tố quan trọng khi đưa ra quyết định điều trị. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng có thể quan trọng, chẳng hạn như vị trí của ung thư ở vú, loại ung thư và liệu ung thư là thụ thể hormone dương tính, HER2 dương tính hay âm tính ba lần. Bác sĩ cũng sẽ xem xét tuổi tác, sức khỏe chung và sở thích của bạn.

Điều trị ung thư vú giai đoạn đầu có thể bao gồm:

Phẫu thuật ngực
Xạ trị
Hóa trị liệu
Liệu pháp nội tiết
Các liệu pháp nhắm mục tiêu

5.1 Điều trị ung thư vú giai đoạn 1

Khi ung thư vú được phát hiện sớm và ở giai đoạn khu trú, tỷ lệ sống sót sau 5 năm tương đối là 100%. Ung thư vú giai đoạn 1 điều trị được rất hiệu quả, tuy nhiên cần được điều trị ngay lập tức, thường là phẫu thuật và thường là xạ trị, hoặc kết hợp cả hai. Ngoài ra, bạn có thể cân nhắc liệu pháp hormone, tùy thuộc vào loại tế bào ung thư được tìm thấy và các yếu tố nguy cơ bổ sung. Hóa trị thường không cần thiết cho các giai đoạn sớm của ung thư như ung thư giai đoạn 1.

Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho ung thư vú giai đoạn I. Những bệnh ung thư này có thể được điều trị bằng phẫu thuật bảo tồn vú ( đôi khi được gọi là cắt bỏ khối u hoặc cắt bỏ một phần vú) hoặc cắt bỏ vú. Các hạch bạch huyết gần đó cũng sẽ cần được kiểm tra, bằng sinh thiết hạch bạch huyết trọng điểm (SLNB) hoặc bóc tách hạch bạch huyết ở nách (ALND).

Trong một số trường hợp, tái tạo vú có thể được thực hiện cùng lúc với phẫu thuật loại bỏ ung thư. Nhưng nếu bệnh nhân cần xạ trị sau khi phẫu thuật, theo các bác sĩ xạ trị ung thư tốt hơn là chờ đợi đến khi xạ trị xong rồi mới tái tạo vú

Nếu phẫu thuật bảo tồn được thực hiện, xạ trị thường được thực hiện sau khi phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư tái phát trong vú và cũng để giúp kéo dài thời gian sống hơn.

Một số trường hợp đặc biệt, phụ nữ từ 70 tuổi trở lên có thể xem xét phẫu thuật bảo tồn mà không cần xạ trị nếu có tất cả các yếu tố sau:

Khối u có chiều ngang từ 2 cm (nhỏ hơn 1 inch) trở xuống và nó đã được cắt bỏ hoàn toàn.
Không có hạch bạch huyết nào bị loại bỏ chứa ung thư.
Ung thư dương tính với ER hoặc dương tính với PR, và liệu pháp hormone được thực hiện.
Phẫu thuật Micro-TESE
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho ung thư vú giai đoạn I
Xạ trị ở nhóm phụ nữ này vẫn làm giảm nguy cơ ung thư tái phát, nhưng nó không được chứng minh là giúp họ sống lâu hơn.

Nếu phẫu thuật cắt bỏ vú được thực hiện, xạ trị ít có khả năng cần thiết hơn, nhưng nó có thể được thực hiện tùy thuộc vào từng bệnh ung thư cụ thể. Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ nếu cần điều trị tia xạ.

Đối với những bệnh nhân bị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (dương tính với ER hoặc dương tính với PR), hầu hết các bác sĩ sẽ đề nghị liệu pháp hormone (tamoxifen hoặc chất ức chế aromatase, hoặc một loại thuốc khác) như một phương pháp điều trị bổ trợ (bổ sung), không dù khối u có nhỏ đến đâu. Phụ nữ có khối u lớn hơn 0,5 cm (khoảng 1⁄4 inch) có thể có nhiều khả năng cải thiện điều trị khi sử dụng. Liệu pháp hormone thường được thực hiện trong ít nhất 5 năm.

5.2. Điều trị ung thư vú giai đoạn 2

Ung thư vú giai đoạn II cũng được điều trị bằng phẫu thuật bảo tồn vú hoặc cắt bỏ vú. Các hạch bạch huyết gần đó cũng sẽ được kiểm tra, bằng sinh thiết hạch bạch huyết trọng điểm (SLNB) hoặc bóc tách hạch bạch huyết ở nách (ALND).

Bệnh nhân được phẫu thuật bảo tồn sẽ được điều trị bằng xạ trị sau phẫu thuật. Phụ nữ cắt bỏ vú thường được điều trị bằng tia xạ nếu ung thư được tìm thấy trong các hạch bạch huyết. Một số bệnh nhân có sinh thiết hạch trọng điểm cho thấy ung thư ở một vài hạch bạch huyết, có thể không cần cắt bỏ phần còn lại của hạch bạch huyết để kiểm tra thêm nữa. Mà ở những bệnh nhân này, xạ trị có thể được thảo luận như một lựa chọn điều trị sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú.

Nếu ban đầu bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn II và đã được điều trị như hóa trị hoặc liệu pháp hormone trước khi phẫu thuật, thì liệu pháp xạ trị có thể được khuyến nghị nếu ung thư được phát hiện trong các hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật cắt bỏ vú. Một bác sĩ chuyên điều trị xạ trị ung thư có thể xem xét trường hợp của bệnh nhân để thảo luận xem bức xạ có hữu ích hay không. Nếu cũng cần hóa trị sau khi phẫu thuật, thì việc xạ trị sẽ được trì hoãn cho đến khi hóa trị xong.

Trong một số trường hợp, tái tạo vú có thể được thực hiện trong quá trình phẫu thuật loại bỏ ung thư. Nhưng nếu bạn sẽ cần xạ trị sau khi phẫu thuật, tốt hơn là bạn nên đợi để được tái tạo cho đến khi bức xạ hoàn tất.

Liệu pháp toàn thân được khuyến cáo cho một số phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn II. Một số liệu pháp toàn thân được đưa ra trước khi phẫu thuật (liệu pháp tân bổ trợ), và những liệu pháp khác được đưa ra sau khi phẫu thuật (liệu pháp bổ trợ). Phương pháp điều trị tân bổ trợ thường là một lựa chọn tốt cho những phụ nữ có khối u lớn, vì chúng có thể thu nhỏ khối u trước khi phẫu thuật, đủ tiêu chuẩn để có thể chuyển sang phẫu thuật bảo tồn. Nhưng điều này không cải thiện khả năng sống sót nhiều hơn so với các phương pháp điều trị sau phẫu thuật. Trong một số trường hợp, liệu pháp toàn thân sẽ được bắt đầu trước khi phẫu thuật và sau đó tiếp tục sau phẫu thuật.

------------------------------------------
Bài viết “Ung thư vú giai đoạn đầu không thể bỏ qua: Giai đoạn sớm 1 và 2” được tham vấn từ Trưởng ban cố vấn y khoa Bacsiungthu.net – Trưởng khoa Ngoại Bệnh viện K, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Quang Thái.
- Tham gia Cộng đồng Tư vấn, Điều trị Ung bướu trên FACEBOOK để đặt câu hỏi và được tư vấn online trực tiếp từ bác sĩ Thái (không giới hạn): https://www.facebook.com/groups/446012154410930
- Hoặc đặt Lịch trên website để nhận tư vấn qua ĐIỆN THOẠI Miễn Phí - trực tiếp từ bác sĩ Thái (giới hạn 10 cuộc ĐT/tuần), truy cập đường link sau và đăng ký chờ xếp lịch ngay: https://bacsiungthu.net/lien-he

Bài viết bằng tiếng Anh từ Bacsiungthu.net :

1. What is early breast cancer?

Early breast cancers are malignant breast tumors that are confined to the breast tissue and can invade lymph nodes but have not invaded much of the surrounding organs. The prognosis for these stages of breast cancer is much better than for the later stages.

The most common early-stage breast cancer is ductal carcinoma in situ (DCIS) that originates from cells in the milk ducts.

Stage 0 cancer is called "carcinoma in situ". Carcinoma means cancer and "In situ" means "at the original site". The three types of “carcinoma in situ” of breast tissue are: DCIS - Ductal carcinoma in situ LCIS - Lobular carcinoma in situ and Paget's disease of the nipple

Stage 1 and 2 breast cancers are invasive breast cancers located in the breast. The cancer may or may not have spread to the lymph nodes in the breast or armpit. In some cases, cancer cells may have spread beyond the breast and armpit area but cannot be detected. The earlier breast cancer is diagnosed and treated, the better the chance of survival.

2. Types of breast cancer stage 1 & 2

The most common types of invasive breast cancer are named for the location where the cells are cancerous. Types of early breast cancer include:

Invasive ductal carcinoma (IDC) - IDCs start in the milk ducts and account for 80% of all breast cancers.
Invasive lobule carcinoma (ILC) - ILCs begin in the lobules and account for 10% of breast cancers.
There are also other less common forms of invasive breast cancer, such as inflammatory breast cancer and Paget's disease of the nipple.

3. Breast cancer stage 1

In stage 1 breast cancer, the cancer is obvious, but the tumor is confined to the area where the first abnormal cells started to develop. If breast cancer has been detected at this stage, it can be treated very effectively.

Stage 1 can be divided into Stage 1A and Stage 1B. The difference is determined by the size of the tumor and the lymph nodes that have evidence of cancer cells.

Stage 1A breast cancer means: The tumor is smaller or nearly the size of a peanut (2 cm or smaller) AND has not spread to the lymph nodes.
Stage 1B breast cancer includes:
Lymph nodes have evidence of cancer with small clusters of cells ranging in size from 0.2 mm to 2.0 mm, approximately the size of a spike to approximately a grain of rice.
AND no actual tumor was found in the breast.
OR the tumor is less than 2cm in size or smaller (equivalent to the size of a peanut).

4. Breast cancer stage 2

Stage 2 means that the breast cancer is growing, but it is still confined to the breast or the growth has only extended to nearby lymph nodes. This stage is divided into groups: Stage 2A and Stage 2B. The difference is determined by the size of the tumor and whether the breast cancer has spread to the lymph nodes.

Stage IIA breast cancer includes:

There were no actual tumors associated with cancer cells, and fewer than four axillary lymph nodes had cancer cells.
OR the tumor is smaller than 2 cm and fewer than four axillary lymph nodes have cancer cells.
OR the tumor is 2 to 5 cm in size and has not spread to the lymph nodes.
Stage IIB breast cancer includes:

The tumor is 2 to 5 cm in size and has spread to fewer than 4 axillary lymph nodes.
OR the tumor is larger than 5cm, but has not spread to any lymph nodes in the armpit.
Breast cancer
Stage 2 means breast cancer is developing

5. Treatment of early breast cancer

The goal of early breast cancer treatment is to remove the breast cancer and any cancer cells that may remain in the breast, armpit, or other parts of the body but are undetectable.

Treatment for early breast cancer can be different for each person. The stage (extent) of breast cancer is an important factor when making treatment decisions. However, other factors may also be important, such as the location of the cancer in the breast, the type of cancer, and whether the cancer is hormone receptor positive, HER2 positive, or triple negative. Your doctor will also consider your age, general health, and preferences.

Treatment for early breast cancer may include:

Breast surgery
Radiotherapy
Chemotherapy
Endocrine therapy
Targeted therapies

5.1 Treatment of breast cancer stage 1

When breast cancer is found early and at a localized stage, the relative 5-year survival rate is 100%. Stage 1 breast cancer is very treatable, but requires immediate treatment, usually with surgery and often radiation therapy, or a combination of both. Alternatively, you may consider hormone therapy, depending on the type of cancer cells found and additional risk factors. Chemotherapy is not usually needed for early stages of cancer such as stage 1 cancer.

Surgery is the mainstay of treatment for stage I breast cancer. These cancers can be treated with breast-conserving surgery (sometimes called lumpectomy or partial mastectomy) or mastectomy. Nearby lymph nodes will also need to be examined, either with a sentinel lymph node biopsy (SLNB) or axillary lymph node dissection (ALND).

In some cases, breast reconstruction can be done at the same time as surgery to remove the cancer. But if the patient needs radiation therapy after surgery, it is better to wait until the radiation therapy is over before reconstructing the breast

If conservative surgery is performed, radiation therapy is often given after surgery to reduce the risk of cancer coming back in the breast and also to help prolong survival.

In exceptional circumstances, women 70 years of age and older may consider conservative surgery without radiation therapy if all of the following are present:

The tumor was 2 cm (less than 1 inch) across and it was completely removed.
None of the removed lymph nodes contained cancer.
Cancer is ER-positive or PR-positive, and hormone therapy is performed.
Micro-TESE surgery
Surgery is the mainstay of treatment for stage I breast cancer
Radiation therapy in this group of women still reduces the risk of the cancer coming back, but it hasn't been shown to help them live longer.

If a mastectomy is performed, radiation therapy is less likely to be needed, but it may be done depending on the specific cancer. Patients should discuss with their doctor if radiation therapy is needed.

For patients with hormone receptor-positive (ER-positive or PR-positive) breast cancer, most doctors will recommend hormone therapy (tamoxifen or an aromatase inhibitor, or an other) as an adjuvant (additional) treatment, no matter how small the tumor. Women with tumors larger than 0.5 cm (about 1⁄4 inches) may be more likely to improve treatment with use. Hormone therapy is usually done for at least 5 years.

5.2. Treatment of stage 2 breast cancer

Stage II breast cancer is also treated with breast-conserving surgery or mastectomy. Nearby lymph nodes will also be examined, either with a sentinel lymph node biopsy (SLNB) or axillary lymph node dissection (ALND).

Patients with conservative surgery will be treated with radiation therapy after surgery. Women who have a mastectomy are often treated with radiation if cancer is found in the lymph nodes. Some patients whose sentinel lymph node biopsy shows cancer in a few lymph nodes may not need to have the rest of the lymph node removed for further examination. In these patients, radiation therapy may be discussed as a treatment option after mastectomy.

If the patient was initially diagnosed with stage II breast cancer and received treatment such as chemotherapy or hormone therapy prior to surgery, radiation therapy may be recommended if cancer is detected in the breast. lymph nodes at the time of mastectomy. A doctor who specializes in radiation therapy can review the patient's case to discuss whether radiation would be helpful. If chemotherapy is also needed after surgery, radiation therapy will be delayed until chemotherapy is complete.

In some cases, breast reconstruction can be done during surgery to remove the cancer. But if you'll need radiation therapy after surgery, it's better to wait for your reconstruction until the radiation is complete.

Systemic therapy is recommended for some women with stage II breast cancer. Some systemic therapies are given before surgery (neoadjuvant therapy), and others are given after surgery (adjuvant therapy). Neoadjuvant treatments are often a good option for women with large tumours, as they can shrink the tumor before surgery, making it possible to convert to conservative surgery. But this did not improve survival more than with post-operative treatments. In some cases, systemic therapy will be started before surgery and then continued after surgery.

------------------------------------------
The article “Early breast cancer cannot be ignored: Early stages 1 and 2” was consulted by the Head of Medical Advisory Board Bacsiungthu.net – Head of Surgery Department of K Hospital, Dr., Doctor Nguyen Quang Thai.
- Join the Community of Oncology Consultation and Treatment on FACEBOOK to ask questions and get online advice directly from Thai doctors (unlimited): https://www.facebook.com/groups/446012154410930
- Or book a Schedule on the website to receive a FREE PHONE - directly from a Thai doctor (limited to 10 phone calls/week), visit the following link and register for an appointment right away: https://bacsiungthu .net/lien-he

Tin tức liên quan